1 Về tổ chức KH&CN
Thời gian qua, nguồn lực KH&CN của đất nước ta đã có
bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là trong
các lĩnh vực công nghệ cao, khoa học mới. Theo thống kê của Bộ KH&CN,
đến cuối năm 2010, cả nước có 1.513 tổ chức KH&CN, trong đó có 1.001 tổ chức
ở trung ương và 512 tổ chức tại địa phương. Trong số đó, có 949 tổ chức
KH&CN công lập (63%) và 564 tổ chức KH&CN ngoài công lập (37%).
Khái niệm nhân lực khoa học và công nghệ
Khái niệm nhân lực khoa học và công nghệ
Định hướng phát triển nguồn nhân lực KH&CN Việt Nam
![]() |
Thực trạng nguồn nhân lực KH&CN Việt Nam |
Trong số 949 tổ chức KH&CN công lập, có 356 tổ chức được
Nhà nước cấp toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên, chiếm 37,5%. Có 274 tổ chức
đã tự bảo đảm một phần kinh phí hoạt động thường xuyên, chiếm 28,9%. Còn lại
319 tổ chức đã tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên, chiếm 33,6%.
Riêng đối với 564 tổ chức KH&CN ngoài công lập, 100% các tổ chức này tự
trang trải toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên và tự chủ về nhiệm vụ, tài
chính, tài sản, hợp tác quốc tế, quản lý nhân lực và tổ chức bộ máy. Ngoài ra,
số lượng các tổ chức và doanh nghiệp đã và đang hoạt động theo mô hình doanh
nghiệp KH&CN quy định tại Nghị định 80/2007/NĐ-CP là khoảng 2.000 tổ chức,
trong đó có 15% tổ chức thuộc các trường đại học.
Cơ cấu nhân lực KH&CN theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều
bất hợp lý. Số cán bộ quản lý Nhà nước về KH&CN ở 63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chiếm một tỷ lệ nhỏ (hơn 4.100 người). Ngoài ra, ở các địa
phương cũng có tới 1.260 tổ chức KH&CN. Tuy vậy, sự phân bố nhân lực
KH&CN trình độ cao giữa các vùng, miền có sự chênh lệch rất lớn. Những khu
vực cần nhiều "chất xám" để phát triển như: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây
Nam bộ... lại hầu như ít có sự xuất hiện thường trực các nhà khoa học. Hầu hết
các tổ chức KH&CN ở địa phương chỉ có dưới 10 cán bộ biên chế, hầu như
không có cán bộ trình độ trên đại học.
Nhà nước đã bố trí cán bộ chuyên trách KH&CN cho cấp huyện,
thị xã, quận nhưng việc triển khai khá khó khăn, do thiếu nhân lực và cũng do
cách thức triển khai không thống nhất ở nhiều địa phương. Ngay như tại Hà Nội,
đến nay mới có 15/29 quận, huyện, thị xã trực thuộc cử cán bộ chuyên trách về
KH&CN. Theo chỉ đạo của thành phố, trong giai đoạn 2009-2010, hoạt động
KH&CN cấp quận, huyện chú trọng tới việc triển khai áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2000 xuống cấp xã, phường; triển
khai các dự án đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật về các xã ngoại thành, miền
núi...
2 Về nhân lực KH&CN
Tổng số nhân lực trong 1.513 tổ chức KH&CN của cả nước là
60.543 người, đạt 7 người/1vạn dân. Trong đó, trình độ tiến sĩ là 5.293 người
(8,74%), trình độ thạc sĩ là 11.081 người (18,30%), trình độ đại học là 28.689
người (47,39%) và trình độ từ cao đẳng trở xuống là 15.480 người (25,57%).
Số lượng này được phân bổ theo 5 lĩnh vực: Khoa học xã hội và
nhân văn; khoa học tự nhiên; khoa học nông nghiệp; khoa học y - dược và khoa học
kỹ thuật và công nghệ.
Trong tổng số 60.543 người, có 6.420 người thuộc lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn, chiếm 10,6 %. Có 4.460 người thuộc lĩnh vực khoa học
tự nhiên, chiếm 7,4%. Có 15.302 người thuộc lĩnh vực khoa học nông nghiệp, chiếm
25,3%. Có 6.548 người thuộc lĩnh vực khoa học y-dược, chiếm 10,8%. Và có 27.813
người thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, chiếm 45,9%.
Như vậy, số tổ chức KH&CN cũng như đội ngũ nghiên cứu
khoa học đã có sự tăng trưởng đáng ghi nhận. So với năm 1996, số tổ chức
KH&CN đã tăng gấp gần ba lần; nhân lực KH&CN cũng tăng gấp ba lần. So với
giai đoạn 2001-2005 thì tăng gấp gần 1,5 lần về số lượng. Tuy nhiên, số liệu thống
kê cho thấy, nguồn lao động KH&CN trong các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm
7,25% lực lượng lao động.
3. Về năng lực KH&CN
Thông qua việc giải quyết các vấn đề KH&CN do thực tiễn đặt
ra, năng lực nghiên cứu trong một số lĩnh vực KH&CN của nước tađã có sự
phát triển vượt bậc, thể hiện qua các công trình công bố quốc tế, các văn bằng
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nhiều sản phẩm từ kết quả nghiên cứu đã đạt được
trình độ khu vực và quốc tế, đã và đang được đưa vào ứng dụng thực tiễn, mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
Số lượng bài báo, công trình khoa học công bố quốc tế của người
Việt Nam giai đoạn 2006-2010 là 4.869; giai đoạn 2001-2005 là 2.506; Số lượng
sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2006-2008 là 1.015, tăng 30% so với giai đoạn
2003-2005.
Với mức đầu tư vẫn còn rất thấp nếu xét về giá trị tuyệt đối,
nhưng trình độ nghiên cứu trong một số lĩnh vực của chúng ta đã so sánh được với
trình độ của các nước trong khu vực và một số nước tiên tiến. Đặc biệt, đã
có một số tổ chức khoa học và công nghệ đạt trình độ đứng đầu khu
vực.
Tuy vậy, năng lực KH&CN vẫn còn nhiều yếu kém: Trong 10
năm qua, số lượng công bố của các nhà khoa học Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Thái
Lan và 2/5 của Malaysia. Hơn nữa, ở nhiều lĩnh vực, phần lớn những nghiên cứu
này là do hợp tác với nước ngoài. Trong giai đoạn 2000-2007, các nhà khoa học
Việt Nam chỉ đăng ký được 19 bằng sáng chế, trong khi cùng thời gian này
Malaysia có 901 bằng sáng chế. Thái Lan (310), Philippines (256) và Indonesia
(85) cũng đều có số bằng sáng chế hơn Việt Nam nhiều lần.
4. Những tồn tại
Nhìn chung, trong điều kiện còn hạn chế của môi trường khoa học,
đội ngũ cán bộ khoa học ở nước ta còn ít về số lượng và hạn chế về năng lực,
chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển đất nước. Việc phân bố nhân lực và cơ cấu trình độ chưa hợp lý theo vùng,
miền và lĩnh vực hoạt động. Tình trạng hẫng hụt đội ngũ chưa được khắc phục.Chúng
ta còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các “kỹ sư trưởng”, "tổng công trình
sư", đặc biệt là thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao. Chưa sử
dụng và phát huy được trí tuệ của lực lượng trí thức, chuyên gia khoa học Việt
Nam ở nước ngoài. Một bộ phận không nhỏ nhân lực khoa học và công nghệ trình độ
cao, đặc biệt là giảng viên trong các trường đại học không trực tiếp làm nghiên
cứu và phát triển. Phần lớn nhân lực khoa học và công nghệ hiện đang tập trung
làm việc ở khu vực nhà nước, trong khu vực tư nhân và doanh nghiệp còn rất thấp.
Tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm của cán bộ khoa học và
công nghệ còn chưa cao, khó hình thành được các nhóm nghiên cứu mạnh liên
ngành. Thiếu sự hợp tác giữa các nhà khoa học đứng đầu các nhóm nghiên cứu.
Điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ và trang thiết bị nghiên cứu
của nhiều tổ chức khoa học và công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu cho hoạt động
nghiên cứu ở trình độ quốc tế. Hầu hết các tổ chức khoa học và công nghệ là các
đơn vị sự nghiệp, nhưng lại đang được áp dụng cơ chế quản lý như đối với cơ
quan quản lý hành chính với chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý (nhà khoa học
nhận tiền lương thấp theo ngạch bậc như đối với các cơ quan hành chính, không
tính đến năng lực nghiên cứu, hiệu quả công việc; không có bất cứ loại phụ cấp
nào đối với loại hình lao động chất xám này). Hạn chế này triệt tiêu động
lực sáng tạo của các nhà khoa học, không khuyến khích sự toàn tâm gắn bó với sự
nghiệp khoa học của đất nước.
Thiếu quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao
thuộc các lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên. Số lượng các nhà khoa học đầu
ngành, có trình độ chuyên môn cao và hiện đang tham gia các hoạt động nghiên cứu
khoa học mang tính chuyên nghiệp là rất ít và ngày càng suy giảm. Trong khi đó,
các cán bộ khoa học trẻ lại không được tạo động lực để phấn đấu theo đuổi và gắn
bó với sự nghiệp khoa học lâu dài. Số lượng cán bộ KH&CN đông, số tổ chức
KH&CN nhiều, nhưng không có các tập thể khoa học mạnh, các tổ chức
KH&CN đạt trình độ quốc tế.
Nguyên nhân của những hạn chế chủ yếu là do hệ thống giáo dục
và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực KH&CN chất lượng
cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển KH&CN cũng như sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thiếu quy hoạch đào
tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao ở các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, đặc
biệt là cán bộ KH&CN đầu ngành.
Chính sách tiền lương cho người làm KH&CN chưa thỏa đáng.
Có thể nói là người làm công tác KH&CN ở Việt Nam đang được hưởng một chế độ
tiền lương thấp nhất trong hệ thống tiền lương của công chức, viên chức nhà nước
hiện nay. Điều này là nguyên nhân quan trọng làm cho hiện tượng “chảy máu chất
xám” trong các tổ chức KH&CN công lập gia tăng nhanh. Không có các chính
sách cụ thể để thu hút nguồn nhân lực KH&CN ở nước ngoài làm việc cho Việt
Nam. Mọi chủ trương chính sách mới chỉ là dừng ở mức khuyến khích về tinh thần,
không có các điểu kiện vật chất để thực hiện (ví dụ như chính sách về nhà ở, tiền
lương cho chuyên gia nước ngoài…). Chưa có chính sách cụ thể hữu hiệu cho việc
đào tạo đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu khoa học, nên các tổ chức
KH&CN gặp rất nhiều khó khăn trong việc tạo lập các nhóm nghiên cứu mạnh.
Luật KH&CN năm 2000 đã quy định, hàng năm Nhà nước dành một
khoản ngân sách để đào tạo, đào tạo lại nhân lực về khoa học và công nghệ ở
trong nước và ở nước ngoài; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, những người
có trình độ cao, kỹ thuật viên lành nghề. Tổ chức, cá nhân được tạo điều kiện để
tự đào tạo, tham gia vào việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học
và công nghệ, cử hoặc cấp học bổng cho công dân Việt Nam đi học tập, nâng cao
trình độ chuyên môn ở trong nước và ở nước ngoài theo quy định của Chính phủ.
Nhà nước trọng dụng nhân tài, tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ sáng tạo và cống
hiến; có chính sách và biện pháp để thu hút nhân tài vào việc thực hiện các nhiệm
vụ khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước; có chính sách khuyến
khích trong việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực nữ trong hoạt động khoa học
và công nghệ; xây dựng các tập thể khoa học và công nghệ mạnh, đạt trình độ khu
vực và quốc tế; có chế độ đãi ngộ tương xứng với cống hiến và có chế độ ưu đãi
đặc biệt đối với cá nhân có công trình khoa học và công nghệ đặc biệt xuất sắc,
có cống hiến lớn đối với đất nước. Tổ chức, cá nhân sử dụng nhân lực khoa học
và công nghệ có trách nhiệm bố trí, sử dụng đúng năng lực, sở trường và tạo điều
kiện thuận lợi để họ phát huy khả năng chuyên môn vào việc thực hiện các nhiệm
vụ khoa học và công nghệ. Nhà nước có chính sách thỏa đáng về lương, điều kiện
làm việc, chỗ ở đối với cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. Chính phủ, Ủy
ban nhân dân các cấp có trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chính sách ưu đãi
đối với cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ ở cơ sở, chú trọng địa bàn
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và địa bàn có điều kiện kinh tế -
xã hội đặc biệt khó khăn.
Tuy nhiên, chính sách thỏa đáng về lương, điều kiện làm việc,
chỗ ở đối với cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ, ưu đãi đối với cá
nhân hoạt động KH&CN trong thực tiễn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, Luật
KH&CN năm 2000 cũng như Nghị định số 81/2002/NĐ-CP ngày 17/10/2002 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật KH&CN chưa có nội
dung cụ thể nào quy định ai có thẩm quyền, kinh phí từ nguồn ngân sách nào, mối
quan hệ của nội dung quy định này với các luật chuyên ngành khi có quy định
khác nhau mà quy định đó gây bất lợi cho hoạt động KH&CN.
Những bất cập nêu trên đã và đang trở thành những vấn đề
không nhỏ làm cho hoạt động KH&CN của nước ta trên thực tế chưa đáp ứng đầy
đủ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Việc đào tạo, trọng
dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ ở nước ta còn rất nhiều bất cập và
luôn tạo ra những khoảng cách không đáng có giữa nhà khoa học với Nhà nước. Nếu
không kịp thời có chính sách đãi ngộ và trọng dụng nhân tài mang tính đột phá
thì không thể có những nhà khoa học đầu ngành, những tập thể khoa học mạnh và
nước ta không thể đạt được mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến
năm 2020 về sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao chiếm 40%
giá trị sản xuất công nghiệp, cũng như việc đưa Việt Nam thành nước có nền
KH&CN đạt trình độ phát triển của nhóm nước dẫn đầu ASEAN.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét