Một số giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn.
Đào tạo nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn trong sự nghiệp đổi mới.
![]() |
Nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực |
1. Nâng cao nhận thức của các nhà quản lý về đào tạo nguồn nhân lực
trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
Nhân lực trong lĩnh vực KHXH và
NV là lực lượng tiên phong trong việc định hướng giá trị xã hội. Đội ngũ cán
bộ lãnh đạo quản lý hiện đang trực tiếp lãnh đạo, quản lý công tác KHXH và
NV cần nhận thức sự cần thiết của việc đầu tư đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh
vực KHXH và NV một hài hoà, cân đối với việc đào tạo nguồn nhân lực khoa
học công nghệ.
Để đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới, nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV không thể tự phát hình
thành mà phải trải qua quá trình chủ động, tích cực đào tạo. Nhân lực trong
lĩnh vực KHXH và NV đa số được đào tạo cơ bản, đã trải qua rèn luyện trong thực
tiễn, được trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học, có nhiều thành
tựu cống hiến cho khoa học của đất nước tuy nhiên nhu cầu phát huy năng lực
sáng tạo của nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV ngày càng tăng. Để có được năng
lực đó thì nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn phải được đào tạo.
Thực tế cho thấy, không phải ai cũng làm được khoa học và không phải ai cũng có
điều kiện công việc phù hợp với khả năng chuyên môn của mình. Nhân lực trong
lĩnh vực KHXH và NV phải có phẩm chất đạo đức tốt, tư duy khoa học sắc sảo, năng
động, có tinh thần khoa học, có phương pháp nghiên cứu tiên tiến, phù hợp với vốn
kiến thức và thực tiễn phong phú dồi dào. Tất cả những yếu tố đó không phải chỉ
học một lần ở trường đại học là có đủ. Họ cần phải được đào tạo mới, đào tạo lại
một cách quy củ, công phu và thường xuyên trong quá trình làm việc.
Từ việc nâng cao nhận thức, các
nhà quản lý cần cụ thể hoá bằng những chính sách, hành động cụ thể đối với công
tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này. Từ việc xây dựng chiến lược đào
tạo đến xây dựng quy chế đào tạo đối với từng đối tượng cụ thể và thực hiện
chúng trên thực tế. Trước mắt, cần tập trung vào việc đào tạo trên đại học nhằm
tạo ra nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học bậc cao và cũng là nguồn hình thành đội
ngũ chuyên gia đầu đàn của KHXH và NV trong tương lai. Việc xây dựng chiến lược
đào tạo để khắc phục tình trạng thiếu đội ngũ đầu đàn, thiếu chuyên gia KHXH và
NV hiện nay. Chất lượng ngang tầm quốc tế là tiêu chuẩn hàng đầu của nguồn nhân
lực chất lượng cao ở thế kỷ XXI. Muốn có nhân tài phục vụ đắc lực cho đất nước
thì chất lượng ngày càng ngang tầm quốc tế càng thuận lợi. Những nỗ lực phải tập
trung vào chất lượng, từ khâu tạo nguồn đến nội dung đào tạo và hiệu quả đào tạo
theo hướng quy chuẩn hoá, hoà nhập và liên thông với quốc tế.
Ngoài ra, bản thân đội ngũ nhân lực
cần phải thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn và nhận thức rõ về vị
trí, vai trò, bổn phận của mình để có thể phát huy tiềm năng, bộc lộ năng
lực, phẩm chất khoa học của mình. Nhân cách sáng tạo phải được phát triển trong
hoạt động thực tiễn và năng lực tự ý thức. Cần chọn lọc đúng một đội ngũ cán bộ
nghiên cứu lý luận có chiều sâu trong tư duy lý luận và chiều dày kinh nghiệm
xã hội. Để có được một đội ngũ cán bộ như vậy cấn phải có một hệ thống chính
sách lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng hợp lý các nhà khoa học lý luận. Phải
cố gắng phát hiện những tài năng lý luận. Năng khiếu lý luận là một vốn quý của
mỗi nhà khoa học xã hội và của quốc gia.
2. Gắn liền công tác đào tạo với công tác quy hoạch, sử dụng, đãi ngộ
và đánh giá nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV.
Đào tạo chỉ là một khâu trong quản
lý nguồn nhân lực. Vì vậy, muốn hoạt động đào tạo nguồn nhân lực hiệu quả đòi hỏi
nhà quản lý phải gắn công tác đào tạo với quy hoạch, sử dụng, đãi ngộ và đánh
giá nhân lực. Thực hiện giải pháp này cụ thể hoá biện pháp như sau:
Thứ nhất, cần xây dựng, quy hoạch
đội ngũ nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV có quy mô hợp lý, có cơ cấu đồng
bộ về chuyên môn (ngành, chuyên ngành), trình độ (học hàm, học vị) và về độ tuổi,
giới tính…đảm bảo tính kế thừa và phát triển.
Thứ hai, cần có chính sách sử dụng
hiệu quả nguồn nhân lực trong lĩnh vực KH XH và NV sau khi đào tạo để không dẫn
đến tình trạng lãng phí trong đào tạo. Thực trạng của quá trình sử dụng đội
ngũ nhân lực KHXH và NV bị lãnh phí do giữa đào tạo và sử dụng chưa đồng bộ. Vì
vậy, hiện nay với một số ngành khoa học xã hội và nhân văn vó vai trò lớn với sự
phát triển của đất nước, Nhà nước nên có kế hoạch đào tạo và sử dụng nhằm phục
vụ cho những mục tiêu chiến lược. Cần tiến hành thường xuyên việc khảo sát hiện
trạng đào tạo và sử dụng nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn để
từ đó có một chiến lược đào tạo đúng đắn.
Thứ ba, có các chính sách đãi ngộ
cụ thể đối với những người được đào tạo. Người được đào tạo cần có sự hỗ trợ về
tài chính để công tác đào tạo được thực sự nâng cao về chất lượng.
Thứ tư, kết quả đào tạo có thể được
làm cơ sở đánh giá nhân lực
3. Tăng cường điều kiện tài chính; cơ sở vật chất phục vụ quá
trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Điều kiện tài chính,điều kiện vật
chất là những yếu tố vật chất phục vụ cho quá trình tích luỹ, thể hiện và tái tạo
tiềm năng nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV. Để đảm bảo cho quá trình
đào tạo có hiệu quả thì cần phải coi trọng công tác này. Cải thiện điều kiện
tài chính, cơ sở vật chất cho quá trình đào tạo thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, cải thiện mức
sống, điều kiện làm việc của lực lượng nguồn nhân lực này.
Nhân lực trong lĩnh vực KHXH và
NV có đặc thù là lao động trí óc chính vì vậy, họ phải được bù đắp đủ để tái tạo
sản xuất sức lao động. Nếu không được bù đắp thoả đáng thì sẽ dẫn đến hiện tượng
bị hao mòn một cách tự nhiên hoặc chảy máu chất xám tức là sự di động trong
lĩnh vực này sang lĩnh vực khác.
Thứ hai, cần tập trung ngân
sách đầu tư cho cơ sở vật chât của cơ sở đào tạo cũng như đầu tư ngân sách cho
công tác đào tạo cán bộ và những công trình khoa học.
Quan điểm chung đều coi đầu tư cho
KHXH và NV là đầu tư cho sự phát triển và muốn phát triển khoa học thì phải đầu
tư. Sự đầu tư này không chỉ đơn thuần là sự tăng ngân sách mà cần phải có cả những
cơ chế quản lý phù hợp nếu không sẽ dẫn đến lãnh phí, không hiệu quả.
Thứ ba, cần thành lập Quỹ “Phát
triển tài năng khoa học” để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những tài năng khoa học.
4. Thực hiện thường xuyên phương thức “Đào tạo kế nhiệm” đối với nguồn
nhân lực KHXH và NV.
Đào tạo kế nhiệm là phương thức để
tiếp nối thế hệ này sang thế hệ khác hiệu quả nhất, tránh tình trạng ngắt quãng
khoảng cách, hụt hẫng giữa các thế hệ. Đây là vấn đề có tính chiến lược trong
đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV tạo nên lớp lớp thế
hệ những nhà nghiên cứu, những giảng viên, những nhà quản lý có chất lượng, đáp
ứng yêu cầu của thực tế.
Con đường để trở thành nhà nghiên
cứu, người giảng dạy, nhà quản lý có tính chuyên nghiệp không phải một sớm một
chiều, cần phải có quá trình tích luỹ. Kiểm nghiệm một nhà nghiên cứu, người giảng
dạy, nhà quản lý có phù hợp với thực tế hay không, không thể dựa vào ấn tượng của
một số người nào đó, càng không thể dựa vào sự yêu ghét cá nhân mà phải dựa
trên cơ sở khảo sát một cách toàn diện có tính lịch sử của quá trình học tập va
công tác. Tức là, những thế hệ mới những người kế tục phải được thực tiễn kiểm
nghiệm, thử thách, trưởng thành trong thực tiễn và được thực tiễn lựa chọn. Thực
tiễn là môi trường, không gian rộng lớn cho nhân tài ưu tú trưởng thành. Đây là
con đường hữu hiệu để đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Vì vậy, nhiệm vụ đối với
phương thức này là trên cơ sở xây dựng những tiêu chí, tiêu chuẩn, mạnh dạn đề
bạt, không hạn chế sử dụng những nhân tài tương đối trẻ. Các cán bộ trẻ này phải
được rèn luyện toàn diện ở nhiều cương vị, nhiều mặt công tác. Cần đặt một cách
có ý thức gánh nặng lên vai cán bộ trẻ, thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo công tác
của họ; tổng kết kinh nghiệm, phát huy thành tích, khắc phục hạn chế, khó khăn.
Để làm được điều đó, cần có chính sách đào tạo riêng với từng đối tượng đào tạo,
không nên chỉ thực hiện chính sách chung cho tất cả các đối tượng tạo nên hiện
tượng “hành chính hoá” trong công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực.
5. Hợp tác quốc tế là giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo
Hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn
nhân lực trong KHXH và NV là một phương cách hữu hiệu để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Chúng ta cần phát huy tối đa nội lực và tranh thủ được sự giúp
đỡ của các quốc gia, tổ chức quốc tế trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực này.
Chúng ta cần có xây dựng kế hoạch “Xuất khẩu và trao đổi chuyên gia” trên
nhiều lĩnh vực, tạo ra hành lang pháp lý, diễn đàn để các chuyên gia có điều kiện
trao đổi phục vụ nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu, quản lý tầm khu vực và quốc tế.
Để thực hiện được giải pháp trên chúng ta cần:
+ Xây dựng hệ thống chính sách cụ
thể về vấn đề hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực có
trình độ cao.
+ Liên kết với các viện nghiên cứu,
các trường đại học có uy tín của nước ngoài tổ chức các chương trình đào tạo
nhân lực KHXH và NV
+ Có chiến lược và lộ trình cụ thể
trong việc cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài với từng tổ chức nhất định thông
qua liên kết đào tạo, hợp tác nghiên cứu với các tổ chức quốc tế và chuyên gia
nước ngoài.
+ Tạo mối quan hệ hợp tác
lâu bền với các trường đại học, viện nghiên cứu của các nước có nền KHXH và NV
mạnh để từ đó có thể phát triển khoa học, đẩy mạnh hội nhập kinh tế theo từng
hướng trọng điểm mà đất nước ta cần.
+ Đối mới theo hướng hội nhập hệ
thống chương trình đào tạo phù hợp với chương trình đào tạo hiện đại trên thế
giới. Tăng cường đầu tư cho công tác xây dựng chương trình đào tạo phát triển
nhân lực KHXH và NV hướng tới mục tiêu đạt tiêu chuẩn của các nước tiên tiến.
Tiếp cận các chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế bằng việc cải cách
các chương trình sẵn có sao cho phù hợp với đặc thù của Việt Nam. Qua đó, mở rộng
các hình thức liên kết đào tạo quốc tế tại Việt Nam, để vừa giảm gánh nặng kinh
phí, vừa đạt hiệu quả trong điều kiện thực tế. Đồng thời, tổ chức các lớp
chuyên đề, mời các chuyên gia nước ngoài tới giảng bài cho các nhà khoa học của
nước ta.
+ Thực hiện chính sách thu hút
người tài thông qua việc kêu gọi các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về xây
dựng đất nước, hoặc có những đóng góp về khoa học cho đất nước. Họ sẽ là đầu mối
liên hệ giữa các nhà khoa học trong nước với các nhà khoa học quốc tế, giúp
chúng ta có thể nắm bắt được các trào lưu khoa học mới, bắt kịp trình độ quốc tế.
Đây là nguồn nhân lực đáng kể cho chính sách hội nhập trong lĩnh vực KHXH và
NV.
Mục tiêu đào tạo nhân lực trong
lĩnh vực KHXH và NV đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực KHXH và NV (bao gồm các thế hệ kế tiếp) có trình độ chuyên môn,
phẩm chất chính trị và bản lĩnh khoa học đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn đổi
mới và ngang tầm với tiêu chuẩn quốc tế. Hướng tới đào tạo cơ bản, chuyên sâu,
xây dựng cơ cấu nhân lực hoàn chỉnh với các thế hệ khoa học liên tục phát triển.
Năng lực lao động xã hội của nhân
lực trong lĩnh vực KHXH và NV được hiểu một cách khái quát là tri thức chuyên
sâu và có hệ thống, phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, khả năng phát hiện và
giải quyết các vấn đề thực tiễn bằng chuyên môn khoa học xã hội. Nó bao gồm
toàn bộ hệ thống kiến thức chuyên ngành và liên ngành; phương pháp pháp nghiên
cứu khoa học; thế giới quan, nhân sinh quan; khả năng phát hiện - giải quyết
các vấn đề xã hội và con người...Xã hội ngày càng phát triển phong phú, đa dạng,
càng tạo ra một thực tiễn rộng lớn cho sự phản ánh và tạo ra lượng thông tin
cho con người tích luỹ. Những nhà khoa học là những người có khả năng nhìn rộng
và sâu hơn những vấn đề của thực tiễn do đó họ có thể thấy được những vấn đề và
giải pháp từ thực tiễn. Những năng lực ấy được hình thành gắn liền với chuyên
môn của nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV hoặc xuất phát từ những yếu tố có
liên quan đến quá trình lao động sáng tạo của họ. Nó có được là do quá trình
tích luỹ, rèn luyện trong thực tiễn khoa học, trong quá trình sáng tạo và truyền
bá tri thức của nhà khoa học và cũng là kết quả của những tác động tích cực của
xã hội với KHXH và NV. Như vậy, để có được năng lực lao động khoa học họ phải
được tích luỹ và tự tích luỹ cho mình một kiến thức sâu rộng. Quá trình tích luỹ
tri thức của nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV khá phong phú, đa dạng. Có nhiều
con đường để tích luỹ tiềm năng khoa học xã hội; được đào tạo cơ bản hoặc tự
đào tạo, song tất cả đều giống nhau ở sự cần cù, nghiêm túc và sáng tạo.
Muốn đào tạo, phát triển nhân lực
có hiệu quả, bài toán đầu tiên đặt ra là chất lượng. Đào tạo và phát triển
nhân lực trong lĩnh vực KHXH và NV có vai trò quyết định đến trình độ chuyên
môn, năng lực khoa học - yếu tố quan trọng nhất tạo nên chất lượng nhân lực.
Tuy nhiên việc đào tạo và phát triển nhân lực phải theo một quy trình nhất định
thì các giải pháp mới mang tính đồng bộ. Nếu chúng ta yếu ở khâu nào thì tập
trung giải pháp ngay ở khâu đó tạo nên sự thống nhất và toàn diện trong đào tạo
nhân lực. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là quá trình diễn ra thường
xuyên. Đánh giá hiệu quả của quá trình đào tạo là khâu cuối cùng của quy trình
nhưng lại là cơ sở để xác định nhu cầu đào tạo cho giai đoạn tiếp theo.
Khoa Khoa học
quản lý,Trường ĐHKHXH&NV
Đại học Quốc
gia Hà Nội
0 nhận xét:
Đăng nhận xét