1. Khái niệm chất lượng nguồn nhân lực quản lý
Nguồn nhân lực quản lý không đơn giản là các thuộc
tính có giá trị - tức có ích, mạng lại hiệu lực, hiệu quả cho chính hoạt động
chức năng của nguồn nhân lực quản lý. Không như các nguồn nhân lực khác, do tầm
quan trọng và tính nhạy cảm của nó, chất lượng nguồn nhân lực quản lý còn là
các tố chất tâm lý của bản thân các cán bộ quản lý. Đó là một đặc trưng của nguồn
nhân lực nói chung, nguồn nhân lực quản lý nói riêng.
![]() |
Chất lượng nguồn nhân lực quản lý |
2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
quản lý
- Nhóm tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ quản lý
Đây là nhóm các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực quản lý trên phương diện cá nhân từng lao động quản lý. Do đó, có thể
nói đây cũng chính là những tiêu chí đánh giá năng lực quản lý của cán bộ quản
lý. Sau đây là các tiêu chí chính:
+ Năng lực quản lý: Trên cơ sở khái niệm quản lý đã
đưa ra ở trên, năng lực quản lý được hiểu là tổng thể các khả năng về quản lý
người lao động, tổ chức công việc, hoặc định chiến lược, xử lý các hoạt động
tác nghiệp, điều hành và lãnh đạo cấp dưới, v.v. Thiếu năng lực quản lý, một
người không thể trở thành một nhà quản lý có “chất lượng”. Đây là tiêu chí mang
tính quyết định, do vậy thường được đưa ra cân nhắc đầu tiên khi đánh giá cán bộ
quản lý. Ngoài ra, trong các chương trình đào tạo cán bộ quản lý người ta thường
theo tiêu chí này.
+ Trình độ chuyên môn: Người lãnh đạo, quản lý trong một
đơn vị thông thường giữ vai trò chủ chốt trong đơn vị đó. Họ làm việc với nhân
viên dưới quyền, được quyền phân giao công việc, nhiệm vụ cho các nhân viên đó.
Các nhà quản lý đồng thời nên giữ vai trò “thủ lĩnh nhóm”. Có như vậy, vai trò
lãnh đạo mới có thẻ phát huy hiệu quả tối ưu. Muốn được sự công nhận của các
nhân viên dưới quyền, không cách nào khác là nhà quản lý phải nắm vững chuyên
môn nghiệp vụ, trừ những trường hợp đặc biệt, người ta có cái “duyên” trong quản
lý đến mức mà không cần biết nhiều về chuyên môn, họ cũng có thể điều khiển
thành công cả một hệ thống.
+ Năng lực cá nhân: Đây là những năng lực nội tại, có
thể nói là sẵn có trong bản thân mỗi cán bộ quản lý. Tất nhiên, năng lực cá
nhân có thể được rèn luyện những thông thường đó là do thiên bẩm, là tố chất của
mỗi cá nhân. Nó bao gồm khả năng giao tiếp, thuyết trình, khả năng tư duy, phân
tích sáng tạo, khả năng quan sát, khả năng chịu áp lực công việc, v.v.
+ Kết quả công việc: Suy cho cùng, kết quả là cái đích
cuối cùng của mọi hoạt động nói chung, không riêng gì các hoạt động quản lý.
Chính vì thế, người ta thường lấy kết quả để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
quản lý hay năng lực của cán bộ quản lý. Sẽ không thể thuyết phục nếu một nhà
quản lý được đánh giá là giỏi nhưng kết quả công việc lại quá tệ. Tuy nhiên,
chúng ta cũng không thể dựa vào mỗi kết quả để đánh giá năng lực cán bộ quản
lý, bởi vì sự thành công trong quản lý được quyết định bởi rất nhiều nhân tố chứ
không chỉ có năng lực nhà quản lý.
+ Phẩm chất đạo đức: Với nhà quản lý, cái tài thôi là
chưa đủ, mỗi nhà quản lý cần có cái tâm, đảm bảo có thể ứng xử đúng đắn, dung
hòa được lợi ích. Hơn nữa, chính đạo đức chứ không là gì khác, chính là điểm hấp
dẫn nhất, thuyết phục nhất của mỗi nhà quản lý đối với nhân viên của mình. Một
nhà quản lý có tâm, sẽ là nhà quản lý thu hút được nhiều nhân viên giỏi giang
và tâm huyết nhất.
+ Tư tưởng chính trị: Bất kỳ tổ chức nào cũng phảo hoạt
động trọng phạm vi quốc gia. Cho nên việc chấp hành các đường lối, chủ trương,
chính sách là yêu cầu sống còn. Việc kiên định lập trường chính trị không chỉ
là vấn đề đạo đức mà còn là sự thích ứng trong hoàn cảnh. Tư tưởng chính trị vững
vàng giúp cho nhà quản lý có thể có những quyết định đúng đắn đối với lợi ích của
tổ chức, địa phương và cả xã hội.
- Các chi tiêu đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ quản
lý
Khác với những chỉ tiêu đã đề cập ở trên, ở đây chúng
ta sẽ chỉ chú trọng đến những tiêu chí đánh gái chất lượng nguồn nhân lực quản
lý trên góc độc tập thể. Có 2 tiêu chí chủ yếu để đánh giá chất lượng hệ thống
quản lý, đó là:
+ Sự phối hợp trong công việc: Đây là tiêu chí đánh
giá mức độ và hiệu quả của việc phối hợp trong công việc của các nhà quản lý
trong cùng một tổ chức. Công việc của một nhà quản lý luôn cần sự phối hợp với
các bộ phận khác trong phạm vi tổ chức, để có thể sử dụng tối ưu nguồn lực của
tổ chức. Chính điều này làm nên sức mạnh của hệ thống quản lý của một tổ chức.
Một nhà quản lý cho dù là có năng lực, nhưng sẽ không làm được gì nếu trong tổ
chức ấu thiếu cơ chế phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý.
+ Kỷ luật lao động: Đây là tiêu chí đánh giá mức độ mà
các cá nhân tuân theo những quy định của toàn tổ chức. Khác với tính kỷ luật đã
được đề cập ở trên, tính kỹ luật ở đây mang tính cưỡng chế nhiều hơn. Bởi kỷ luật
trong lao động đảm bảo cho tổ chức có thể hoạt động theo một hướng đích nhất định, hạn chế tối đa việc
lãng phí các nguồn lực của tổ chức. Kỷ luật lao động chính là những nguyên tắc
được đưa ra khiến các cá trong tổ chức đều phải tuân thủ, không riêng gì là cán
bộ quản lý hay nhân viên dưới quyền.
Tag: Đào tạo liên thông, Tuyển sinh Công nghệ Ôtô, Tuyển sinh Chế tạo máy, Tuyển sinh ngành Luật, Tuyển sinh Điển tử truyền thông,
Tag: Đào tạo liên thông, Tuyển sinh Công nghệ Ôtô, Tuyển sinh Chế tạo máy, Tuyển sinh ngành Luật, Tuyển sinh Điển tử truyền thông,
bài viết có thêm hình ảnh nữa là rất hay và bạn có thể tham khảo nâng cao năng lực quản lý cấp trung
Trả lờiXóa