Phát triển nguồn nhân lực là một vấn đề liên quan đến nhiều
lĩnh vực, do vậy nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia cần được
tiếp cận một cách có hệ thống. Bài viết đề cập đến những nhân tố tác động đến
phát triển nguồn nhân lực.
![]() |
Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực |
1. YẾU TỐ KINH TẾ - XÃ
HỘI
Hệ thống chính trị, pháp luật và các chính sách xã hội cũng
là một trong những nhân tố liên quan đến nguồn nhân lực, đến thị trường sức lao
động. Hệ thống các chính sách xã hội nhằm vào mục tiêu vì con người, phát huy mọi
tiềm năng sáng tạo của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội,
với phương hướng phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, giải quyết tốt tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa
đáp ứng các nhu cầu trước mắt với việc chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với
tập thể và cộng đồng xã hội. Nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực không thể
không nghiên cứu đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước như Luật Giáo dục, Luật Dạy
nghề, Luật Lao động, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chính sách, cơ chế
quản lý kinh tế, xã hội...
Thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại cho thấy, sức
sống và trình độ phát triển lực lượng sản xuất hiện đại đều bắt nguồn từ trình
độ xã hội hóa, tạo ra mối quan hệ giữa các nguồn lực xã hội với các nhu cầu xã
hội, bởi, khi sản xuất và tiêu dùng ngày càng có tính chất xã hội thì sẽ đánh
thức mọi tiềm năng về vật chất và trí tuệ của xã hội vào phát triển kinh tế thị
trường. Mức độ khai thác các tiềm năng vật chất của xã hội thể hiện rõ ở quy mô
phát triển của lực lượng sản xuất, còn mức độ huy động và sử dụng tốt các tiềm
năng trí tuệ của xã hội lại là chỉ số về chất lượng và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất hiện đại.
Và trong nền kinh tế thị trường, mặc dù người lao động có
nhiều cơ hội lựa chọn việc làm theo khả năng của mình, song họ cũng phải đối mặt
với nhiều thách thức, thậm chí là thất nghiệp, bởi xét đến cùng sự ổn định về
việc làm chỉ mang tính tương đối, do vậy, người lao động cần phải được đào tạo,
tái đào tạo để có được trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề giỏi hơn, có sức
khỏe và tác phong làm việc tốt hơn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị
trường lao động, vì vậy, quy luật giá trị đặt ra yêu cầu tiên quyết là vấn đề
chất lượng lao động. Còn đối với quy luật cạnh tranh, thì đó là động lực của mọi
sự phát triển. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất bảo
đảm sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Trong nền kinh tế
thị trường, cạnh tranh có vai trò to lớn, nó thúc đẩy người lao động phải thường
xuyên trao dồi kiến thức để thích ứng với công nghệ mới, phương thức quản lý mới.
Còn đối với quy luật cung-cầu, thì đó là mối quan hệ giữa người bán và người
mua, là quan hệ không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. Quan hệ
cung-cầu trên thị trường sức lao động là một cân bằng động. Do vậy, khi nghiên
cứu phát triển nguồn nhân lực cần phải chú ý đến tính cân bằng giữa cung và cầu
lao động, bởi đây là nhân tố rất quan trọng giúp cho việc hoạch định các chính
sách trở nên thiết thực và có hiệu quả hơn.
Như vậy, mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và kinh
tế-xã hội là mối quan hệ nhân quả, quan hệ qua lại hai chiều. Kinh tế-xã hội
càng phát triển thì khả năng đầu tư của nhà nước và xã hội cho phát triển nguồn
nhân lực ngày càng tăng, tạo mọi cơ hội và môi trường thuận lợi cho phát triển
nguồn nhân lực. Ngược lại, nguồn nhân lực của quốc gia, địa phương được phát
triển tốt sẽ góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội và trong vòng xoáy ốc
thuận chiều này nhân tố nọ kích thích nhân tố kia phát triển.
2. GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Giáo dục và đào tạo là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lực
lượng sản xuất, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Bởi
tri thức và phẩm chất của người lao động là sản phẩm của quá trình giáo dục và
đào tạo. Các quốc gia đều nhìn nhận rằng một nền giáo dục hoàn chỉnh, đồng bộ,
toàn diện sẽ tạo ra những nhà khoa học, những người lao động có tri thức, có kỹ
năng nghề nghiệp, năng động và sáng tạo. Đối với mỗi người, giáo dục và đào tạo
còn là quá trình hình thành, phát triển thế giới quan, tình cảm, đạo đức, hoàn
thiện nhân cách. Còn đối với xã hội, giáo dục và đào tạo là quá trình tích tụ
nguồn vốn con người để chuẩn bị, cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội. Trong đó,
giáo dục phổ thông là nền tảng, là cơ sở tạo ra nguyên liệu cho đào tạo nguồn
nhân lực; giáo dục nghề nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm cung cấp cho thị
trường sức lao động. Với ý nghĩa và tầm quan trọng ấy, đầu tư cho giáo dục được
xem như là đầu tư cho phát triển.
3. KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ảnh hưởng lớn đến phát
triển nguồn nhân lực. Sự phát triển kinh tế-xã hội trên thế giới hiện nay thực
chất là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao chất lượng và
hiệu quả lao động trên cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực. Những tiến bộ khoa học
và công nghệ làm thay đổi cơ cấu lao động của mỗi quốc gia, mỗi địa phương; làm
thay đổi tính chất, nội dung lao động nghề nghiệp của người lao động, làm cho
lao động trí óc tăng dần và lao động chân tay ngày càng có khuynh hướng giảm
đi; tiến bộ khoa học và công nghệ từng bước được quốc tế hóa tạo nên sự cạnh
tranh gay gắt về năng suất, chất lượng, giá thành. Nhiều ngành nghề mới xuất hiện,
nhiều nghề cũ mất đi, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của người lao động bị hao
mòn nhanh chóng; tiến bộ của khoa học và công nghệ cũng đã làm thay đổi nội
dung, phương pháp dạy học từ giáo dục phổ thông đến đại học. Do vậy, cần phải
nghiên cứu cải tiến, mềm hóa chương trình, phương thức đào tạo để tạo điều kiện
cho người lao động có thể cần gì học nấy, học tập suốt đời, không ngừng cập nhật,
nâng cao trình độ trước những thay đổi nhanh chóng của khoa học và công nghệ.
4. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
Truyền thống lịch sử và giá trị văn hóa gồm ý thức dân tộc,
lòng tự hào về những giá trị truyền thống là yếu tố cơ bản, có ý nghĩa xuyên suốt
không chỉ hôm nay mà cả về sau. Những giá trị truyền thống như: tôn sư trọng đạo,
ý thức cộng đồng, lòng yêu nước, thương người, tinh thần dũng cảm, bất khuất,
tinh thần hiếu học, trọng học, chữ hiếu, lối sống thanh bạch, trong sạch, lòng
nhân ái, sẵn sàng tương trợ người khác trong những lúc gặp khó khăn hoạn nạn...
đây là giá trị truyền thống đang chi phối cuộc sống của mỗi chúng ta, là những
nhân tố có ý nghĩa nhất định, cần phát huy. Cũng lưu ý rằng, nhịp sống theo cơ
chế thị trường cũng có không ít những tác động làm biến đổi những giá trị truyền
thống, cũng phần nào tác động đến giá trị truyền thống, đến chất lượng nguồn
nhân lực.
5. TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng ảnh hưởng đến phát triển
nguồn nhân lực, bởi những nhân tố này đã tạo điều kiện cho các quốc gia, địa
phương kết hợp tốt nhất sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, phát huy được nội
lực và mọi tiềm năng sáng tạo; đồng thời, tranh thủ được tối đa các nguồn lực
bên ngoài phục vụ cho phát triển. Xu thế hội nhập quốc tế có tác động nhiều mặt
và đặt ra những yêu cầu mới đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở mỗi quốc
gia, dẫn đến một cuộc cách mạng về đào tạo ngành nghề trong xã hội. Do đó, các
quốc gia, địa phương phải chuẩn bị cho mình những tiềm lực lao động đáp ứng yêu
cầu của một hệ thống ngành nghề mới đang phát triển phù hợp với xu thế thời đại.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các quốc gia còn phải hướng đến
việc phát triển những con người thích ứng với thời đại cạnh tranh ồ ạt và khốc
liệt để phát triển. Có thể nhận ra rằng, tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế đối với việc điều chỉnh, lựa chọn chiến lược phát triển của các quốc
gia, địa phương mà trong đó có cả phát triển nguồn nhân lực là rất mạnh mẽ và
sâu sắc. Phát triển một thế hệ mới các doanh nhân, đội ngũ trí thức, những người
lao động có trình độ chuyên môn cao, có tay nghề vững vàng, có năng lực quản
lý, sản xuất, kinh doanh để có thể giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh trước
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong đó kinh tế tri thức hiện nay cũng được
xem là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nguồn nhân lực, bởi sức lan tỏa
mạnh mẽ và được xem như là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển kinh tế-xã
hội nói chung, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nói riêng, nó thúc đẩy sự
tăng nhanh năng suất lao động, sở hữu cá nhân và sở hữu xã hội, tạo ra bước đột
phá về chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nền
kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển
kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như
làm chủ và sáng tạo tri thức cho những nhu cầu của riêng mình. Có thể thấy,
trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là
vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Tiềm năng, ưu việt của kinh tế tri thức thể hiện ở xu hướng
mới của phát triển khoa học có tính chất liên ngành, đặc biệt xu hướng thâm nhập
vào nhau của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội (về tri thức, phương pháp,
cách sử dụng thành tựu khoa học) hướng vào hình thành mối quan hệ hài hòa giữa
con người với con người và giữa con người với tự nhiên. Sự phát triển kinh tế
tri thức đến trình độ nào đó sẽ làm thay đổi phương thức lao động và sản xuất,
phương thức tiêu dùng và lối sống của xã hội trong nền văn minh mới. Phát triển
nguồn nhân lực cần có những phương pháp tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu về
phát triển nguồn nhân lực, đặt phát triển nguồn nhân lực trong mối tương quan với
các nhân tố tác động đến nó nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực,
tìm ra những giải pháp hữu hiệu để phát triển nguồn nhân lực cho đất nước trong
bối cảnh mới.
Nguyễn Long Giao. Thạc sỹ. Trường
Trung học Cơ sở Khánh Bình Thành phố Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Văn Dạo. 2008. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở nước ta hiện nay. Tạp chí Lao động và Xã hội, số 329/2008.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2001. Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
4. Đặng Hữu. 2001. Khoa học công nghệ, kinh tế tri thức và
công nghiệp hóa rút ngắn ở nước ta. Các chuyên đề “Bổ trợ phục vụ nghiên cứu
quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX”. Hà Nội.
5. Nguyễn Minh Đường. 2012. Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu
phát triển nguồn nhân lực. Tạp chí Khoa học Giáo dục. Số 78/2012. Hà Nội.
Tag: Đào tạo liên thông, Tuyển sinh Công nghệ Ôtô, Tuyển sinh Chế tạo máy, Tuyển sinh ngành Luật, Tuyển sinh Điển tử truyền thông,
Tag: Đào tạo liên thông, Tuyển sinh Công nghệ Ôtô, Tuyển sinh Chế tạo máy, Tuyển sinh ngành Luật, Tuyển sinh Điển tử truyền thông,
0 nhận xét:
Đăng nhận xét